BaDen
Lịch sử Núi Bà Đen
Theo Gia Định thành thông chí, núi Bà Đen có tên gốc là Bà Dinh. Những bậc kỳ lão địa phương thì cho rằng tên gốc là núi Một.
Tổ đời thứ 35: Thiệt Diệu – Liễu Quán
1733 - 1742
Tổ sư Thiệt Diệu Liễu Quán là vị Sơ tổ của Thiền phái Liễu Quán, một dòng thiền thuần Việt ra đời vào đầu thế kỷ XVIII tại Đàng Trong. Hơn 300 năm qua, nguồn mạch thiền phái do Ngài sáng lập vẫn mãi được “truyền đăng tục diệm”, phát triển hưng thịnh, đóng góp quan trọng trong lịch sử Phật giáo Việt Nam.

- Tổ sư là người khai sơn chùa Thiên Thai (Huế), được xem là một trong những vị tổ quan trọng nhất của dòng Lâm Tế ở Trung và Nam Bộ.

- Viên tịch năm 1742. Theo ghi chép khắc trên bia đá nhà tổ (2004), ngài được liệt kê là một trong ba vị tổ sơ khởi truyền pháp về phương Nam, nhưng không phải là tổ khai sơn trực tiếp của chùa núi Bà Đen.
BaDen
Tổ đời thứ 38: Đạo Trung – Thiện Hiếu (tục danh: Tổ Bưng Đỉa)
1763 - 1794
Theo các tài liệu thư tịch viết về Phật giáo Tây Ninh, Hòa thượng Đạo Trung – Thiện Hiếu (tục còn gọi là tổ Bưng Đỉa), thuộc thế hệ thứ 38, phái Thiền, chi phái Lâm Tế, dòng đạo Liễu Quán ở Đàng Trong đến núi Bà Đen khai sơn, phá thạch, lập nên ngôi chùa và đặt hiệu là Linh Sơn Tiên Thạch.
Tương truyền, nơi ngài trú ngụ từng là vùng bưng lầy đầy đỉa, khiến người dân không dám khai phá. Nhờ pháp lực trì tụng và lòng từ bi hóa độ, Tổ đã khiến "đỉa chúa màu trắng" hiển lộ và rút lui, trả lại sự thanh tịnh cho vùng đất, từ đó mới có thể dựng chùa, cày cấy. Nhưng có lẽ công hạnh lớn nhất của ngài lại gắn với huyền tích Linh Sơn Thánh Mẫu – Lý Thị Thiên Hương. Sau khi nàng tử tiết trên núi, chính Tổ Đạo Trung là người nhận được điềm mộng, tìm thấy thi hài, chôn cất và lập điện thờ. Từ đó, ngọn nguồn tín ngưỡng thờ Linh Sơn Thánh Mẫu được khởi sinh.
Sau ba mươi mốt năm trụ trì chùa Linh Sơn, đến năm 1794, ngài trao lại đạo tràng cho đệ tử và trở về Thủ Dầu Một, khai sơn chùa Long Hưng, tiếp tục hóa độ quần sinh.
BaDen
Tổ đời thứ 39: Tánh Thiền – Quảng Thông và Tổ Hải Hiệp – Từ Tạng (đời 40)
1794 - 1788
Sau khi Tổ Đạo Trung rời núi, chùa Linh Sơn được giao lại cho đệ tử là Tổ Tánh Thiền – Quảng Thông, đời thứ 39. Mặc dù hành trạng của ngài còn ít được ghi chép, nhưng việc giữ gìn đạo tràng giữa thời loạn là một công hạnh âm thầm đáng kính.
Kế tục sau đó là Tổ Hải Hiệp – Từ Tạng, đời thứ 40, tiếp tục giữ vững đuốc pháp nơi núi thiêng, truyền giới khai hóa cho hàng hậu học.
BaDen
1733 - 1742
1763 - 1794
1794 - 1788
Lịch sử hệ thống Chùa Bà
Hệ thống chùa trên núi Bà Đen, Tây Ninh, hình thành từ thế kỷ XVIII, bao gồm các ngôi chùa linh thiêng, gắn liền với tín ngưỡng thờ Linh Sơn Thánh Mẫu và sự phát triển của Phật giáo tại khu vực.
Tổ đời thứ 35: Thiệt Diệu – Liễu Quán
1733 - 1742
Tổ sư Thiệt Diệu Liễu Quán là vị Sơ tổ của Thiền phái Liễu Quán, một dòng thiền thuần Việt ra đời vào đầu thế kỷ XVIII tại Đàng Trong. Hơn 300 năm qua, nguồn mạch thiền phái do Ngài sáng lập vẫn mãi được “truyền đăng tục diệm”, phát triển hưng thịnh, đóng góp quan trọng trong lịch sử Phật giáo Việt Nam.

- Tổ sư là người khai sơn chùa Thiên Thai (Huế), được xem là một trong những vị tổ quan trọng nhất của dòng Lâm Tế ở Trung và Nam Bộ.

- Viên tịch năm 1742. Theo ghi chép khắc trên bia đá nhà tổ (2004), ngài được liệt kê là một trong ba vị tổ sơ khởi truyền pháp về phương Nam, nhưng không phải là tổ khai sơn trực tiếp của chùa núi Bà Đen.
BaDen
Tổ đời thứ 38: Đạo Trung – Thiện Hiếu (tục danh: Tổ Bưng Đỉa)
1763 - 1794
Theo các tài liệu thư tịch viết về Phật giáo Tây Ninh, Hòa thượng Đạo Trung – Thiện Hiếu (tục còn gọi là tổ Bưng Đỉa), thuộc thế hệ thứ 38, phái Thiền, chi phái Lâm Tế, dòng đạo Liễu Quán ở Đàng Trong đến núi Bà Đen khai sơn, phá thạch, lập nên ngôi chùa và đặt hiệu là Linh Sơn Tiên Thạch.
Tương truyền, nơi ngài trú ngụ từng là vùng bưng lầy đầy đỉa, khiến người dân không dám khai phá. Nhờ pháp lực trì tụng và lòng từ bi hóa độ, Tổ đã khiến "đỉa chúa màu trắng" hiển lộ và rút lui, trả lại sự thanh tịnh cho vùng đất, từ đó mới có thể dựng chùa, cày cấy. Nhưng có lẽ công hạnh lớn nhất của ngài lại gắn với huyền tích Linh Sơn Thánh Mẫu – Lý Thị Thiên Hương. Sau khi nàng tử tiết trên núi, chính Tổ Đạo Trung là người nhận được điềm mộng, tìm thấy thi hài, chôn cất và lập điện thờ. Từ đó, ngọn nguồn tín ngưỡng thờ Linh Sơn Thánh Mẫu được khởi sinh.
Sau ba mươi mốt năm trụ trì chùa Linh Sơn, đến năm 1794, ngài trao lại đạo tràng cho đệ tử và trở về Thủ Dầu Một, khai sơn chùa Long Hưng, tiếp tục hóa độ quần sinh.
BaDen
Tổ đời thứ 43: Tâm Hoà – Chánh Khâm
1871 - 1880
Đến đầu thế kỷ XX, núi Bà lại hội đủ duyên lành khi Tổ Tâm Hòa – Chánh Khâm (đời 43) đăng đàn trụ trì. Trong hai thập kỷ hành đạo, ngài đã tự tay xếp đá làm đường lên núi từ chùa Trung, một việc tưởng chừng nhỏ bé nhưng thể hiện chí nguyện kiên định, hóa độ không lời. Bên cạnh đó, từ năm 1922 đến 1937, ngài cũng xây dựng chùa tổ và nhà tổ bằng đá núi – những công trình chịu đựng qua thời chiến, đến nay vẫn còn vài cột đá được Ni trưởng Thích nữ Diệu Nghĩa bảo tồn và sử dụng khi phục dựng chùa Bà vào cuối thế kỷ XX.

Giảng đường Tâm Hòa – công trình tưởng niệm mang tên ngài – cũng được Ni trưởng cho xây dựng bên cạnh chùa Linh Sơn Phước Trung như một sự tiếp nối đạo hạnh của bậc Tổ sư năm xưa.
BaDen
Tổ đời thứ 42: Trừng Tâm – Huệ Mạng Kim Tiên (pháp danh Thượng Phước hạ Kỳ)
1910 - 1919
Tổ Trừng Tâm, pháp hiệu Huệ Mạng Kim Tiên, là vị tổ đời thứ 42 có hành trạng kỳ lạ. Sau 100 ngày trì tụng Kinh Kim Cang, ngài khiến một tảng đá lớn nứt đôi, mở ra lối đi giữa chùa Bà và chùa Hang. Dân gian gọi nơi ấy là Ông Đá Nứt, biểu hiện của lực đạo và tâm nguyện tinh tấn không dời. Ngài còn được ghi danh trên bia mộ với đầy đủ pháp danh, dòng truyền thừa và tôn hiệu tổ sư.
BaDen
1733 - 1742
1763 - 1794
1871 - 1880
1910 - 1919
Bản đồ số